21/4/11

Kỷ niệm với nhà văn Phùng Quán

Chân dung Phùng Quán (Thanh Tùng chụp năm 1990)
Nguồn ảnh: Ngày Phùng Quán trở về Huế (Thanh Tùng đăng trên TienphongOnline)

Trích Khai từ trong tiểu thuyết Trăng hoàng cung:

Trăng Hoàng Cung
Tác giả: Phùng Quán

Khai từ

Hai mươi mốt tuổi, tôi, người lính chiến bước thẳng vào làng Văn với cuốn tiểu thuyết đầu tay kể chuyện những người vượt ngục thất bại. Ngay sau đó tôi được coi là nhà văn. Nhưng đối với tôi Thơ mới là tất cả. Thơ là mạng sống, là lý lịch đời tôi… Tôi giương thơ như ngày nào ngoài mặt trận giương lưỡi lê đánh giáp lá cà với thói dối trá, đạo đức giả, tệ nạn quan liêu, lãng phí, bòn rút, ăn cắp của công - tuy ngày đó mới manh nha, nhưng tôi đã dự cảm sẽ là hiểm hoạ lớn đang rình phục Nhân dân tôi, Nước tôi; có nguy cơ làm băng hoại những gì thiêng liêng, tốt đẹp, cao quý, mà cả triệu người không tiếc máu để xây dựng và bảo vệ.
… Tôi muốn đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Những con người đã tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!
(“Chống tham ô lãng phí”, Giai phẩm mùa Thu, 1956)
… Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu…

(“Lời mẹ dặn”, Tuần báo Văn, 1957)
Và tôi đã trả giá cho thơ bằng ba mươi năm tốt đẹp của đời mình.
Từ năm hai mươi bốn tuổi đến năm năm mươi sáu tuổi, cơ chế quan liêu đã đánh trả tôi đến chí mạng. Tước đoạt của tôi quyền lao động thiêng liêng: sáng tác, xuất bản, quyền được sống cho ra một con người. Và dìm ngập tôi trong bùn-nhơ-lăng-nhục trước công luận.
Chịu chừng ấy đầy ải, lim thép ắt cũng gãy gục. Nhưng Thơ đã cứu tôi, giúp tôi đứng vững, dạy tôi dũng khí bền gan.
Nếu cần đi trở lại
Tôi đi lại đường này
Để cuối cùng lại chấm hết ở đây!

Suốt ba mươi năm qua, câu thơ của Ga-bri-en Pê-ri − người anh hùng Cộng sản nước Pháp thét lên trước cọc xử bắn, là kinh nhật tụng của tôi.
Có những giây phút ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy

Từng ngày, từng tháng, từng năm, tôi tận sức mình gieo trồng gặt hái Thơ. Vụ được vụ mất, nhưng nhờ mấy chục năm trời tích luỹ mà không dùng đến, Thơ chất được thành lẫm, thành kho… Thơ chiến đấu, thơ thế sự, anh hùng ca, thơ xưng tụng cỏ cây, thơ tặng bạn hữu, thơ đùa vui, thơ tình, thơ rượu, thơ kể hạnh, thơ phúng người thân… Loại hạt nào trong kho lẫm cũng có.
Nhưng rồi bẵng đi một dạo, tôi không làm được thơ nữa. Cái giếng Thơ tưởng như bị cắt mạch, hoặc đã múc cạn đến gầu cuối cùng.
Giờ bất hạnh đời tôi đã điểm! Nhưng xuất thân là anh lính chiến đấu cứng đầu, chưa từng chịu bó tay trong hoàn cảnh gay cấn nhất.
Cạn thơ giữa cuộc đời, tôi quyết định rời bỏ thành phố, gia đình, bạn hữu, giữa cái tuổi năm mươi, lên rừng đào mạch tìm thơ giữa thiên nhiên.
Tôi đã sống suốt ba mươi năm giữa cái lán tranh lợp lá nứa, giữa một bãi phù sa cổ hoang vu, vùng đồi núi Thái Nguyên, mọc lút đầu cỏ dại và cây trinh nữ xanh. Xung quanh bãi đất hoang, con suối lớn Linh Nham vây bọc. Bàn ghế là rễ cây chết tôi lặn lên từ lòng suối. Giường nằm là cây Cơi cổ thụ bị bão xô bật gốc, con suối Linh Nham mang từ rừng đại ngàn về, dâng lũ đến tận thềm lán, trao tặng tôi. Tôi vạt bằng mặt trên thân cây bằng rìu, rồi đục lõm sâu xuống, phảng phất hình cái áo quan; mùa đông nằm vào đó tránh được giá rét và sơn lam chướng khí. Tôi sống với một con chó, một con heo, một bầy gà; ăn bắp, ăn sắn, rau lang, ốc suối, tôm cá tự đánh bắt lấy.
Mùa lũ kkông ai dám vượt suối dữ Linh Nham, nên có khi mười ngày liền không nói tiếng người.
Trong ba năm thì có hai người bạn lặn lội tìm đến thăm. Trần Quốc Vượng, giáo sư sử học; Đỗ Quốc Thuấn, một bạn làm thơ trẻ.
Trước mặt lán, sát bờ suối, tôi đào một cái huyệt rộng một mét, dài hai mét, sâu mét rưỡi. Tôi nguyền không tìm thấy thơ, tôi lăn xuống đó…
Đàn mối đất phù sa
Sẽ thay phu đào huyệt
Bao nghiệt ngã trần gian
Chỉ một tuần vùi hết…

Gặp phải lúc đau ốm, tôi tự chữa bệnh với lá xông, rượu tự cất bằng sắn và men lá, và tia cực tím mặt trời.
Những suốt ba năm ăn nằm với đất, với suối đục, suối trong, với cây hoang cỏ dại, tôi chỉ làm có độc bài thơ.
Ly-rượu-đời Thượng đế ban cho tôi
Quá bủn xỉn…
Tôi chỉ mới nhấp môi đã cạn
Khi chén-rượu-đời đã cạn
Mà túi rỗng không
Phải đứng lên và bước ra khỏi quán

Nghĩa là phải nhắm thái dương mình nổ súng
Hay xiết giây thòng lọng quanh cổ mình
Và trổ lên cuộc đời
Những câu thơ tuyệt mệnh
Những vết chàm xanh…
Các anh tôi đó
Mai-a và Essénhin… [1]

Nhưng tôi chưa sống cho tròn nợ sống
Tôi chưa yêu cho hết nợ yêu
Tôi phải lên rừng
Hái lá khổ sâm [2]
Tự mình cất ly rượu sống
Ôi, rượu khổ sâm đắng lắm!
Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian…
Bạn hữu thân thiết ơi!
Xin đừng trách cứ tôi
Sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng
Chỉ vì
Tôi vừa ngâm ngợi câu thơ
Vừa cạn chén-rượu-đời
Cất bằng lá khổ sâm…

Chú Thích
[1]Hai nhà thơ lớn nhất của Liên bang Xô Viết và cả hai đều tự sát. Mai-a-cốp-ski tự sát năm 1930, anh 39 tuổi. Anh tự sát bằng súng lục, nổ vào tim, để lại mấy vần thơ tuyệt mệnh:
Chiếc thuyền tình mơ mộng thi ca
Va phải mỏ đá ngầm dung tục
Và tan nát…
Es-sê-nhin tự sát năm 1925, anh 30 tuổi. Anh tự sát bằng cách thắt cổ với chiếc cà-vạt, nhưng không buồn treo cổ, mà buộc cổ vào cột lò sưởi, ngồi trên ghế tựa rồi tự thít cổ mà chết. Trước khi tự giết, anh cắt máu ngón tay để viết bài thơ tuyệt mệnh tám câu. Hai câu cuối cùng như vết thương máu của thi ca:
Ở cuộc đời này chết chẳng có gì là mới
Nhưng sống cũng chẳng có gì mới hơn!
Đã nửa thế kỷ qua vết thương vẫn không sao lành được, và càng ngày càng nhức nhối hơn trong trí nhớ những người quyết sống và chết cho Thơ.
[2]Một loại cây mọc hoang trên các vùng đồi núi Trung du, lá cực đắng, được liệt vào cây thuốc nam có biệt tài thải độc trong cơ thể, nhất là các chứng dị ứng. Những năm đi lao động cải tạo, một lần tôi bị mắc phải chứng dị ứng khủng khiếp, tưởng chết. Tôi may mắn được một sư nữ già chùa Tăng Cầu cứu khỏi với mấy nắm lá khổ sâm hái ngay trên ngọn đồi sau chùa. Từ đó ơn cỏ cây cứu mạng, tôi mang canh cánh bên lòng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét